Thời tiền sử và sơ sử
Hình ảnh minh họa thời Đông Sơn
Thời tiền sử ở Việt Nam ghi nhận nền văn minh nông nghiệp lúa nước xuất hiện từ nhiều thiên niên kỷ trước Công nguyên. Văn hoá Đông Sơn (khoảng thế kỷ 7 TCN – thế kỷ 1 SCN) là đỉnh cao của thời đại đồ đồng Việt Nam, với kỹ thuật đúc đồng hoàn mỹ và nhiều hiện vật đồ đồng điển hình (đặc biệt là Trống đồng). Chính các di vật Đông Sơn này đã trở thành cơ sở vật chất cho các tiểu quốc Văn Lang – Âu Lạc thời kỳ Hùng Vương, An Dương Vương.
Thời kỳ Bắc thuộc và đấu tranh giành độc lập
Năm 179 TCN, Triệu Đà tiến công chiếm thành Cổ Loa, đưa đất Âu Lạc bước vào "đêm trường Bắc thuộc" kéo dài hơn 1000 năm. Trong suốt thời gian này, người Việt liên tục nổi dậy chống ngoại xâm. Tiêu biểu là khởi nghĩa Hai Bà Trưng (40–43 SCN) do Trưng Trắc – Trưng Nhị lãnh đạo, đã đánh bại quân Đông Hán, giành được độc lập trong ba năm.
Hình ảnh minh họa cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng năm 40
Gần một thiên niên kỷ sau, Lý Bí (Lý Nam Đế) khởi nghĩa năm 542, đánh đuổi nhà Lương, lập nước Vạn Xuân độc lập (544–602), tự xưng Hoàng đế. Cho đến khi Ngô Quyền (thế kỷ 10) dẹp loạn An Chiêm, chặn viện binh nhà Nam Hán trên sông Bạch Đằng (năm 938) và lên ngôi Vương năm 939 tại Cổ Loa, chính thức lập nên vương quốc độc lập lâu dài. Chiến thắng Bạch Đằng 938 được đánh giá là mốc chấm dứt hơn một thiên niên kỷ Bắc thuộc của Việt Nam.
Các mốc quan trọng:
- Khởi nghĩa Hai Bà Trưng (40–43 SCN) kết thúc 200 năm đầu Bắc thuộc, tạo tiền đề độc lập ngắn hạn.
- Nhà nước Vạn Xuân (542–602): Lý Nam Đế (Lý Bí) khởi nghĩa giành thắng lợi, xưng Hoàng đế Nam Việt Đế.
- Chiến thắng Bạch Đằng (938): Ngô Quyền phá quân Nam Hán, tuyên bố độc lập lâu dài cho đất nước.
Các triều đại phong kiến độc lập
Từ thế kỷ 10 đến thế kỷ 19, Việt Nam trải qua nhiều triều đại tự chủ liên tục:
- Nhà Ngô (939–965): lập quốc sau thắng lợi Ngô Quyền, duy trì nền độc lập ban đầu.
- Nhà Đinh (968–980): Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân, thống nhất đất nước, đặt niên hiệu Thiên Phúc, đóng đô Hoa Lư (Ninh Bình).
- Nhà Tiền Lê (980–1009): Lê Hoàn trị vì, chống Tống xâm lược thắng lợi (981), mở rộng bờ cõi và củng cố nhà nước mới.
Ảnh minh họa chùa một cột thời nhà Lý
- Nhà Lý (1009–1225): Lý Thái Tổ dời đô ra Thăng Long (Hà Nội), quốc hiệu Đại Việt, phát triển Phật giáo, văn hoá – xây dựng bộ máy trung ương vững mạnh, mở ra thời kỳ hưng thịnh.
- Nhà Trần (1225–1400): Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông kháng chiến chống Nguyên Mông thắng lợi ba lần (1258, 1285, 1288); văn hóa tiếp tục phát triển, thời kỳ Phật giáo thịnh hành.
- Nhà Hồ (1400–1407): Hồ Quý Ly cải cách tiền tệ, giáo dục; nước Đại Ngu tồn tại ngắn ngủi rồi thất thủ trước Minh.
- Hậu Lê (1428–1788): Lê Lợi khởi nghĩa thắng Minh, lập Nhà Lê sơ (Hồng Đức là thời thịnh trị), sau đó phân hoá Nam – Bắc triều (Trịnh – Nguyễn chiếm quyền, triều Lê chỉ còn tước hiệu).
- Nhà Mạc (1527–1592): Mạc Đăng Dung chiếm ngôi nhà Lê, chia cắt đất nước; cuối cùng bị thế lực Lê – Trịnh đánh bại, Lê Trung hưng tái lập.
- Triều Tây Sơn (1778–1802): anh em Nguyễn Huệ (Quang Trung) lật đổ Trịnh – Nguyễn, khôi phục độc lập – thống nhất; Nguyễn Huệ đại phá quân Thanh năm 1789.
- Nhà Nguyễn (1802–1945): Nguyễn Ánh (Gia Long) thống nhất đất nước, lập ra triều đại cuối cùng; các vua tiếp theo (Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức…) xây dựng bộ máy phong kiến trung ương theo mô hình Khổng giáo, xây dựng kinh đô Huế và văn hoá cung đình.
Thời kỳ Pháp thuộc (1858–1945)
Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược Đà Nẵng, rồi lần lượt chiếm trọn ba kỳ (1859–1885) và bắt triều đình Huế ký các hiệp ước đầu hàng. Cả đất nước lâm vào ách thống trị của thực dân – phong kiến tay sai trong gần một thế kỷ.
Ảnh minh họa Pháp nổ súng đánh chiếm Đà Nẵng năm 1858
Chính quyền Pháp thi hành chính sách khai thác thuộc địa tàn bạo, nhưng cũng khởi xướng một số cải cách xã hội – giáo dục. Trong giai đoạn này phát sinh nhiều phong trào yêu nước tiêu biểu (Cần Vương, Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục, Việt Nam Quang Phục Hội…). Đến cuối Chiến tranh thế giới thứ II, Nhật đảo chính Pháp (1945), bạo lực cộng sản bùng nổ, tạo điều kiện cho cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám thành công.
Cách mạng Tháng Tám và nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1945)
Cuối tháng 8-1945, phong trào cách mạng lan khắp cả nước, Vua Bảo Đại thoái vị (25-8-1945) mở đường cho lực lượng Việt Minh giành chính quyền. Ngày 2-9-1945, tại Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – nhà nước độc lập dân chủ đầu tiên ở khu vực Đông Nam Á. Chính phủ lâm thời non trẻ phải ngay lập tức đối phó với việc Pháp quay trở lại nhằm phục hồi chế độ thuộc địa, dẫn đến cuộc kháng chiến sau này.
Bác Hồ đọc bản Tuyên ngôn độc lập ngày 2/9/1945
Kháng chiến chống Pháp (1946–1954)
Sau khi Pháp tái xâm lược, nhân dân cả nước "Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ" (Chủ tịch Hồ Chí Minh) đã đồng loạt đứng lên chiến đấu. Cuộc chiến tranh toàn quốc chống Pháp chính thức bắt đầu cuối năm 1946. Toàn dân kháng chiến 9 năm (1946–1954) với tinh thần "toàn dân, toàn diện, lâu dài, tự lực tự cường" và vũ khí thô sơ đã giành được những chiến công vang dội.
Chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954
Nổi bật trong đó là các chiến dịch Việt Bắc (1947), Biên Giới (1950), và cao trào Điện Biên Phủ (tháng 5-1954) với thắng lợi lẫy lừng của Đại đoàn 316 và 304, buộc Pháp phải ký Hiệp định Genève và rút quân khỏi Đông Dương.
Kháng chiến chống Mỹ (1954–1975)
Sau Hiệp định Genève (1954), đất nước tạm thời bị chia cắt ở vĩ tuyến 17. Nhưng nhân dân Việt Nam tiếp tục cuộc chiến tranh chống can thiệp của Mỹ và tay sai, nhất là từ đầu thập niên 1960. "Hai mươi năm kháng chiến chống đế quốc Mỹ" (1955–1975) là một cuộc trường chinh gian khổ, hào hùng của dân tộc.
Xe tăng giải phóng húc đổ cổng Dinh Độc Lập
kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến chống Mỹ
Dưới ngọn cờ của Đảng Cộng sản, nhân dân từ Đồng khởi Bến Tre (1960) đến chiến thắng Ấp Bắc, Vạn Tường; từ chiến dịch Điện Biên Phủ trên không (1972) đến chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử mùa xuân 1975, tiến hành từng bước cắt đứt mọi liên minh nước ngoài và cuối cùng giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Trong đó, cao trào Tết Mậu Thân 1968 là bước ngoặt quan trọng làm thay đổi cục diện chiến tranh. Cuộc chiến kết thúc ngày 30/4/1975 với sự sụp đổ của chính quyền Sài Gòn.
Giai đoạn sau 1975 và công cuộc Đổi mới (1986 đến nay)
Năm 1976, nước Việt Nam được thống nhất và đổi tên là Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Những năm đầu sau thống nhất, kinh tế – xã hội gặp nhiều khó khăn do hậu quả chiến tranh, chủ nghĩa bao cấp trì trệ. Đến Đại hội VI của Đảng (năm 1986) mở ra công cuộc Đổi mới toàn diện: chuyển từ kinh tế tập trung bao cấp sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Lễ diễu binh, diễu hành kỷ niệm 80 năm Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2/9/1945 - 2/9/2025)
Kể từ đó Việt Nam trở thành một trong những nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất thế giới, hội nhập sâu rộng với kinh tế quốc tế. Đến nay Việt Nam đã gia nhập ASEAN (1995), Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO, 2007), APEC…, liên tục thu hút đầu tư nước ngoài và nâng cao mức sống nhân dân. Những thành tựu kinh tế – xã hội rõ nét đã đưa Việt Nam từ một nước nghèo nàn sau chiến tranh trở thành một nền kinh tế năng động, phấn đấu hoàn thiện hướng tới mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" như Hiến pháp và Cương lĩnh đề ra.